I. Dẫn độ và dẫn độ tội phạm

Dẫn độ là một hình thức hợp tác tương trợ tư pháp giữa các nước. Theo đó nước được yêu cầu sẽ bắt giữ và chuyển giao người đã thực hiện hành vi phạm tội hoặc người đã bị Tòa án của nước yêu cầu kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật cho nước yêu cầu để nước này truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành hình phạt.

(Khoản 1 Điều 32 Luật tương trợ tư pháp 2007)

Dẫn độ tội phạm được hiểu một cách đơn giản: là việc các quốc gia trao cho nhau người phạm tội để xét xử hoặc thi hành án.

Dẫn độ tội phạm được hiểu một cách đầy đủ: là việc một quốc gia chuyển giao cho quốc gia khác người có hành vi phạm tội đang có mặt trên lãnh thổ của quốc gia mình để quốc gia được chuyển giao tiếp tục truy cứu trách nhiệm hình sự (TNHS) hoặc thi hành bản án (THA) đã có hiệu lực pháp luật đối với người đó.

(Không giới hạn việc công dân của một nước thứ ba sau khi thực hiện hành vi phạm tội ở nước yêu cầu dẫn độ rồi trốn sang nước được yêu cầu dẫn độ).

Dẫn độ tội phạm được hiểu một cách hạn chế:  là việc một quốc gia chuyển giao cho quốc gia khác công dân của quốc gia được chuyển giao đang có mặt trên lãnh thổ của quốc gia mình, mà người đó đã có hành vi phạm tội thuộc thẩm quyền truy cứu TNHS của quốc gia được chuyển giao hoặc đã bị toà án của quốc gia được chuyển giao kết án và bản án đã có hiệu lực pháp luật để quốc gia được chuyển giao tiếp tục truy cứu TNHS hoặc thi hành hình phạt đối với người đó trên cơ sở các ĐƯQT và pháp luật của mỗi quốc gia.

(Giới hạn: Người bị yêu cầu dẫn độ phải là công dân của nước yêu cầu dẫn độ)

Xem thêm:

Khi bàn về dẫn độ tội phạm, trong giới nghiên cứu luật học còn tồn tại nhiều quan niệm khác nhau:

Quan niệm thứ nhất cho rằng dẫn độ là: “Thủ tục quốc tế, do đó một quốc gia (gọi là quốc gia thỉnh cầu) thỉnh cầu một quốc gia (gọi là quốc gia bị thỉnh cầu) giao cho mình một can phạm trốn tránh trong lãnh thổ quốc gia đó để xét xử hay bắt tuyên hình phạt đã tuyên xử”.

Quan niệm thứ hai cho rằng dẫn độ là:“Hình thức hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự, theo đó quốc gia được yêu cầu dẫn độ trao người có hành vi phạm tội hoặc bị kết án hình sự mà bản án đã có hiệu lực pháp luật đang trên lãnh thổ của mình cho quốc gia yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình phạt”.

Quan điểm thứ ba cho rằng dẫn độ là:“Trường hợp một quốc gia chuyển giao người phạm tội đến một quốc gia khác để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc để chấp hành hình phạt trên cơ sở quy định tại các công ước, hiệp định hay pháp luật quốc gia”.

Quan điểm thứ tư cho rằng dẫn độ là: “Một trong những nội dung của hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự giữa các quốc gia, thể hiện ở chỗ cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của quốc gia được yêu cầu dẫn độ bắt người phạm tội hoặc người đã bị toà án của quốc gia yêu cầu kết án hình sự và bản án đã có hiệu lực pháp luật và giao người đó cho cơ quan có thẩm quyền tiến hành tố tụng của quốc gia yêu cầu dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án”.

II. Đặc điểm của dẫn độ tội phạm:

 

Thứ nhất, dẫn độ tội phạm là việc một quốc gia chuyển giao người có hành vi phạm tội cho quốc gia khác. Việc chuyển giao này được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của quốc gia có yêu cầu chuyển giao người có hành vi phạm tội. Người bị dẫn độ là người thực hiện hành vi phạm tội trên lãnh thổ của quốc gia yêu cầu, đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đã bị kết án bằng bản án đã có hiệu lực pháp luật, sau đó bỏ trốn sang quốc gia được yêu cầu chuyển giao.

Việc chuyển giao người có hành vi phạm tội theo yêu cầu của quốc gia có yêu cầu chuyển giao do cơ quan có thẩm quyền của các quốc gia liên quan đến việc chuyển giao tiến hành.

Vấn đề được đặt ra như giả định dưới đây:

Một công dân Pháp thực hiện hành vi phạm tội ở Việt Nam rồi trốn sang Thái Lan. Dẫn độ thực hiện thế nào? Các cơ quan tiến hành tố tụng của Việt Nam yêu cầu dẫn độ về Việt Nam để truy cứu TNHS và THA hay/và sau đó các cơ quan có thẩm quyền của Pháp yêu cầu dẫn độ về Pháp để truy cứu TNHS và THA?

Thứ haidẫn độ tội phạm chỉ được thực hiện khi có yêu cầu dẫn độ từ quốc gia khác. Quốc gia mà người phạm tội mang quốc tịch, quốc gia nơi tội phạm xảy ra, nơi tội phạm hoàn thành hoặc quốc gia có quyền bị tội phạm xâm phạm đều có quyền yêu cầu dẫn độ. Nhưng việc có chấp nhận dẫn độ hay không lại phụ thuộc vào quyết định của quốc gia được yêu cầu dẫn độ dựa trên các điều ước quốc tế liên quan pháp luật quốc gia và tình hình tội phạm trên thực tế.

Nếu nhiều quốc gia yêu cầu dẫn độ một người thì quốc gia được yêu cầu căn cứ vào pháp luật của quốc gia mình, ĐƯQT đa phương, song phương có liên quan và tình hình tội phạm cụ thể để đưa ra quyết định có chấp nhận yêu cầu dẫn độ của một trong số các quốc gia đó hay không.

Thứ ba, dẫn độ nhằm hai mục đích: truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc thi hành án đối với người có hành vi phạm tội. Các hoạt động này sẽ do quốc gia yêu cầu tiến hành sau khi tiếp nhận người bị dẫn độ từ quốc gia được yêu cầu.

(Khoản 2 Điều 32 Luật Tương trợ tư pháp năm 2007)

Thứ tư, dẫn độ thường được thực hiện trên cơ sở các điều ước quốc tế hoặc mức độ quan hệ giữa các quốc gia.

Các ĐƯQT về dẫn độ tội phạm gồm ĐƯQT đa phương mà quốc gia đó tham gia hoặc gia nhập và ĐƯQT song phương được kí kết giữa quốc gia được yêu cầu và quốc gia yêu cầu dẫn độ.

Nếu có một yêu cầu dẫn độ phù hợp với ĐƯQT có liên quan giữa các quốc gia thành viên, yêu cầu đó phải được thi hành. Nếu từ chối không có cơ sở thì quốc gia được yêu cầu đã vi phạm nghĩa vụ quốc tế của mình đồng thời làm ảnh hưởng đến quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa hai quốc gia. Hoạt động dẫn độ tội phạm tuân thủ các nguyên tắc của pháp luật quốc tế và những nguyên tắc riêng của dẫn độ.

III. Nguyên tắc của dẫn độ tội phạm

Người bị yêu cầu dẫn độ có thể là công dân của nước yêu cầu, người nước ngoài hoặc người không quốc tịch. Công dân của nước được yêu cầu cũng có thể là đối tượng bị dẫn độ nếu pháp luật quốc gia và Điều ước quốc tế (ĐƯQT) về dẫn độ mà nước được yêu cầu là thành viên cho phép dẫn độ công dân cho nước ngoài.

Người phạm tội chỉ có thể bị dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ đáp ứng các điều kiện về tội phạm, hình phạt và các quy định khác theo quy định của ĐƯQT và pháp luật về dẫn độ của nước yêu cầu và nước được yêu cầu dẫn độ.

· Nguyên tắc bình đẳng chủ quyền giữa các quốc gia

Chủ quyền quốc gia là tối cao và bất khả xâm phạm. Khi nhận được một yêu cầu dẫn độ tội phạm, quốc gia nhận được yêu cầu có quyền từ chối hay chấp nhận tùy vào pháp luật dẫn độ của nước mình hay các điều ước quốc tế mà mình đã kí kết hoặc tham gia.

· Nguyên tắc có đi có lại

Nội dung của nguyên tắc này quy định: nước được yêu cầu dẫn độ sẽ chấp nhận dẫn độ với sự đảm bảo rằng nước có yêu cầu giúp đỡ cũng sẽ chấp nhận và thực hiện một yêu cầu như vậy của nước được yêu cầu trong tương lai. Nguyên tắc này thể hiện sự tôn trọng quyền bình đẳng giữa các quốc gia.

· Nguyên tắc định tội danh kép

Đối tượng bị yêu cầu dẫn độ sẽ được dẫn độ khi hành vi của họ được định danh là hành vi tội phạm theo luật quốc gia của cá nước yêu cầu và nước nhận được yêu cầu dẫn độ.

· Nguyên tắc không dẫn độ người phạm tội về chính trị

Nguyên tắc này được ghi nhận trong một số điều ước quốc tế đa phương, song phương về tương trợ tư pháp giữa các quốc gia và trong luật quốc gia của các nước.

IV. Pháp luật quốc tế về dẫn độ tội phạm

Việt Nam kí kết với một số quốc gia trên thế giới các hiệp định tương trợ tư pháp (TTTP) về dân sự, gia đình và vấn đề hình sự mà trong đó có quy định về dẫn độ tội phạm.

Điều ước quốc tế đa phương về dẫn độ tội phạm

Việt Nam đã tham gia một số ĐƯQT đa phương về dẫn độ tội phạm, cụ thể:

** Ba công ước của Liên hợp quốc về kiểm soát chất ma tuý:

(1) Công ước thống nhất các chất ma tuý,

(2) Công ước về chất hướng thần,

(3) Công ước về chống buôn bán bất hợp pháp các chất ma tuý và các chất hướng thần);

*Hai nghị định thư bổ sung cho Công ước quyền trẻ em:

(1) Nghị định thư về việc buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hoá phẩm khiêu dâm trẻ em,

(2) Nghị định thư về việc sử dụng trẻ em trong xung đột vũ trang);

* * Công ước phòng, chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia, Việt Nam đã kí kết Công ước này ngày 13/12/2000 tại Palermo (Italia), tuy nhiên cho đến nay chúng ta vẫn chưa phê chuẩn Công ước này);

* * Công ước chống tham nhũng, Việt Nam đã kí kết Công ước này nhưng chưa phê chuẩn);

*8 trong tổng số 13 ĐƯQT về ngăn ngừa và trừng trị tội phạm khủng bố quốc tế.

* * Hiện nay, Việt Nam đang nghiên cứu để gia nhập các điều ước còn lại. Tuy nhiên, khi phê chuẩn ba công ước về kiểm soát các chất ma tuý và hai nghị định thư bổ sung cho Công ước quyền trẻ em Việt Nam lại bảo lưu các điều khoản về dẫn độ tội phạm.

Trước yêu cầu ngày càng cao về hoạt động hợp tác quốc tế trong TTHS, cũng như yêu cầu về công tác đấu tranh chống và phòng ngừa tội phạm, các vấn đề dẫn độ tội phạm của Việt Nam đã được pháp điển hoá theo hướng ngày càng hoàn thiện, Việt Nam đang nghiên cứu rút lại sự bảo lưu những điều khoản về dẫn độ tội phạm, để có thể đảm bảo đầy đủ cơ sở pháp lí cho hoạt động dẫn độ tội phạm cũng như thể hiện được thiện chí của Việt Nam trong việc nỗ lực thực hiện các ĐƯQT.

Điều ước quốc tế song phương về dẫn độ tội phạm

ĐƯQT song phương về dẫn độ tội phạm hoặc ĐƯQT song phương có quy định về dẫn độ tội phạm cũng là cơ sở pháp lí cho các quốc gia tiến hành việc dẫn độ tội phạm khi có yêu cầu dẫn độ tội phạm phát sinh trong thực tiễn.

Tính đến tháng 8/2012, Việt Nam đã kí kết 29 hiệp định TTTP với các quốc gia trên thế giới, trong đó:

** 4 hiệp định về chuyển giao người bị kết án phạt tù;

* * 23 hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình, thương mại, lao động và vấn đề hình sự. Trong đó có 13 hiệp định TTTP về hình sự có nội dung quy định một số vấn đề về dẫn độ tội phạm.

(1)  Hiệp định TTTP và pháp lí về dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Tiệp Khắc cũ được kí kết ngày 12/10/1982, có hiệu lực từ ngày 16/4/1984. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương II Phần II (Dẫn độ) bao gồm 19 điều (từ Điều 61 đến Điều 79). Hiện nay, Cộng hoà Séc và Cộng hoà Xlôvakia đang kế thừa Hiệp định này.

(2)   Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa Việt Nam và Cu Ba được kí kết ngày 30/11/1984 và đang có hiệu lực. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương I Phần III (Dẫn độ) bao gồm 16 điều (từ Điều 58 đến Điều 73).

(3)   Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Hunggari được kí kết ngày 18/01/1985 và đang có hiệu lực. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương I Phần III (Dẫn độ) bao gồm 18 điều (từ Điều 58 đến Điều 75).

(4)   Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Bungari được kí kết ngày 30/10/1986 và đang có hiệu lực thi hành. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương VIII (Dẫn độ) bao gồm 16 điều (từ Điều 59 đến Điều 74).

(5)   Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Ba Lan được kí kết ngày 23/3/1993, có hiệu lực từ ngày 18/1/1995. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương I Phần 3 (Dẫn độ) bao gồm 18 điều (từ điều 52 đến điều 69).

(6)   Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Lào được kí kết ngày 06/7/1998, có hiệu lực từ ngày 19/02/2000. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại mục II Chương III (Dẫn độ người phạm tội) bao gồm 18 điều (từ Điều 59 đến Điều 76).

(7)   Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Liên bang Nga được kí kết ngày 25/8/1998, có hiệu lực từ ngày 27/8/2012. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương II Phần thứ ba (Dẫn độ để truy tố hình sự và thi hành án) bao gồm 16 điều (từ Điều 62 đến Điều 77)

 

 

Nghị định thư bổ sung Hiệp định tương trợ tư pháp và pháp lí về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Liên bang Nga được kí kết ngày 23/4/2003, có hiệu lực từ ngày 27/7/2012, bổ sung điểm 6 vào khoản 1 Điều 63 về các trường hợp không dẫn độ.

(8) Hiệp định TTTP và pháp lí về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Ukraina được kí kết ngày 16/4/2000, có hiệu lực từ ngày 19/8/2002. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương III (Tương trợ tư pháp và quan hệ pháp lí về các vấn đề hình sự) bao gồm 13 điều (từ Điều 50 đến Điều 62).

(9) Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự, gia đình và hình sự giữa Việt Nam và Mông Cổ được kí kết ngày 17/4/2000, có hiệu lực từ ngày 13/6/2002. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Phần thứ 3 (Tương trợ tư pháp về hình sự) bao gồm 16 điều (từ Điều 54 đến Điều 69).

(10) Hiệp định TTTP và pháp lí về các vấn đề dân sự, gia đình, lao động và hình sự giữa Việt Nam và Belarus được kí kết ngày 14/9/2000, có hiệu lực từ ngày 18/10/2001. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Chương II Phần thứ 3 (Dẫn độ để truy cứu trách nhiệm hình sự và thi hành án) bao gồm 17 điều (từ Điều 69 đến Điều 85).

(11) Hiệp định TTTP về các vấn đề dân sự và hình sự giữa Việt Nam và Triều Tiên được kí kết ngày 04/5/2002, có hiệu lực từ ngày 24/02/2004. Nội dung về dẫn độ tội phạm được quy định cụ thể tại Phần 2 (Tương trợ tư pháp về vấn đề hình sự) bao gồm 12 điều (từ Điều 33 đến Điều 44).

 

(12) Hiệp định về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam với Hàn Quốc được kí kết ngày 15/9/2003, có hiệu lực từ ngày 19/4/2005, bao gồm 20 điều khoản. Đây là ĐƯQT song phương đầu tiên mà Việt Nam tham gia kí kết với một quốc gia khác về vấn đề dẫn độ tội phạm.

(13) Hiệp định về dẫn độ tội phạm giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam với Cộng hoà dân chủ nhân dân Algeria, kí kết ngày 14/4/2010, hiện nay đang trong giai đoạn làm thủ tục phê chuẩn.

Các hiệp định TTTP trên là cơ sở pháp lí quan trọng và chủ yếu cho hoạt động dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và các quốc gia kí kết hiệp định có liên quan. Đó là những quy phạm pháp luật quốc tế thực chất và thống nhất, trực tiếp ấn định quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp tác dẫn độ tội phạm. Do vậy, đây là cách giải quyết dẫn độ tội phạm trong các hiệp định nhanh chóng và hiệu quả nhất.

V. Pháp luật quốc gia về dẫn độ tội phạm, dẫn độ tội phạm ở Việt Nam

Dẫn độ tội phạm được thực hiện theo các ĐƯQT đa phương hoặc song phương nhưng trình tự, thủ tục dẫn độ tội phạm lại tuân theo quy định của pháp luật quốc gia được yêu cầu dẫn độ và pháp luật quốc gia yêu cầu dẫn độ. Theo đó, mỗi quốc gia đều có các quy định về dẫn độ tội phạm.

Hiện nay, nhiều quốc gia đã ban hành luật riêng về dẫn độ tội phạm. Nội dung của luật quy định cụ thể về trình tự, thủ tục dẫn độ tội phạm.

Dẫn độ tội phạm ở Việt Nam được quy định trong Luật Quốc tịch năm 1998, Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 là văn bản luật đầu tiên quy định về tất cả các vấn đề liên quan đến dẫn độ tội phạm.

Để hợp tác và đấu tranh có hiệu quả với loại tội phạm này, Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 đã quy định về dẫn độ tội phạm tại Chương XXXVII - Dẫn độ và chuyển giao hồ sơ, tài liệu, vật chứng của vụ án) nhằm xác định những nguyên tắc cơ bản về hợp tác quốc tế trong tố tụng hình sự nói chung và dẫn độ tội phạm nói riêng. Điều 343 Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 quy định các căn cứ dẫn độ tội phạm như sau:

- Các ĐƯQT mà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tham gia kí kết hay gia nhập.

- Nguyên tắc có đi có lại.

Trường hợp Việt Nam đã kí kết hay gia nhập ĐƯQT thì dẫn độ tội phạm được thực hiện theo các nghĩa vụ quốc tế đã được cam kết. Thông thường ĐƯQT là đa phương và song phương về dẫn độ tội phạm.

Trong trường hợp Việt Nam chưa kí kết hoặc chưa gia nhập các ĐƯQT liên quan thì vấn đề dẫn độ tội phạm có thể được thực hiện theo sự thoả thuận giữa hai chính phủ, trên cơ sở nguyên tắc có đi có lại nhưng không trái với pháp luật Việt Nam, pháp luật quốc tế và tập quán quốc tế. Dẫn độ tội phạm trong trường hợp này không phải là thực hiện nghĩa vụ quốc tế đã cam kết.

Như vậy, nguyên tắc có đi có lại có vai trò quan trọng trong hoạt động dẫn độ tội phạm, là cơ sở thay thế các ĐƯQT trong việc dẫn độ tội phạm và thực hiện dẫn độ tội phạm, nguyên tắc này vẫn có ý nghĩa quan trọng trong cả trường hợp có ĐƯQT về dẫn độ tội phạm.

Bên cạnh Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2003, Luật Tương trợ tư pháp năm 2007 quy định về vấn đề dẫn độ tội phạm tại Chương IV (từ Điều 32 đến Điều 48), trong đó đề cập tất cả những vấn đề liên quan đến dẫn độ tội phạm hiện nay. Điều này có ý nghĩa quan trọng cả về lí luận và thực tiễn trong công tác chuyển giao người bị kết án nhằm phục vụ cho việc truy cứu TNHS, thi hành án nói riêng và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung.

VI. Một số nội dung cơ bản về dẫn độ tội phạm trong các hiệp định TTTP mà Việt Nam kí kết với một số quốc gia trên thế giới

Hiệp định TTTP mà Việt Nam kí kết với các quốc gia trên thế giới quy định một số vấn đề về dẫn độ tội phạm sau đây:

Thứ nhấtnghĩa vụ dẫn độ tội phạm

Các hiệp định TTTP đều thống nhất quy định: Các nước kí kết cam kết sẽ dẫn độ cho nhau những người đang ở trên lãnh thổ quốc gia mình để quốc gia kí kết truy cứu TNHS hoặc để thi hành hình phạt.

Các hiệp định đều chỉ quy định việc dẫn độ tội phạm là để truy cứu TNHS những người có hành vi mà pháp luật của cả hai quốc gia kí kết đều coi là tội phạm, với hình phạt tù giam tối thiểu từ một năm trở lên.

Cụ thể, theo quy định tại khoản 1 Điều 2 Hiệp định về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và Hàn Quốc:

Người bị dẫn độ theo quy ước của Hiệp định này là người có hành vi phạm tội có thể bị xử phạt tù với thời hạn từ một năm trở lên hoặc nặng hơn theo quy định pháp luật của cả hai bên tại thời điểm yêu cầu dẫn độ”

Hoặc tại khoản 2 Điều 62 Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Liên bang Nga quy định:

Việc dẫn độ để truy tố hình sự được tiến hành đối với những hành vi mà theo pháp luật của cả hai Bên kí kết đều là tội phạm và phải chịu hình phạt tù với thời hạn từ một năm trở lên hoặc nặng hơn”.

Bên cạnh đó, khi xem xét đến đối tượng bị dẫn độ để chấp hành hình phạt, ở các hiệp định còn tồn tại sự khác nhau về hình phạt tù tối thiểu để có thể dẫn độ người có hành vi phạm tội hoặc đã bị kết án.

Phần lớn các hiệp định quy định chỉ dẫn độ để bắt thi hành hình phạt những người phạm tội hoặc đã bị kết án mà theo pháp luật của hai quốc gia kí kết bị phạt tù từ một năm trở lên, ví dụ:

Các hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Lào, Việt Nam và Hungary, Việt Nam và Tiệp Khắc cũ. Cụ thể, đoạn 2 Điều 60 Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Lào quy định:

Việc dẫn độ để thi hành bản án hình sự chỉ được thực hiện khi người có hành vi phạm pháp bị kết án tù từ một năm trở lên hoặc hình phạt nặng hơn”.

Tuy nhiên, một số hiệp định quy định mức phạt tù tối thiểu chỉ có 6 tháng để có thể dẫn độ người có hành vi phạm tội, ví dụ:

Các hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Ba Lan, Việt Nam và Mông Cổ, Việt Nam và Hàn Quốc. Cụ thể, đoạn 2 khoản 2 Điều 54 Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Mông Cổ quy định:

“Việc dẫn độ để thi hành bản án đã có hiệu lực pháp luật được áp dụng đối với những người bị kết án phạt tù không dưới 6 tháng hoặc phải chịu hình phạt khác nặng hơn”.

Như vậy, hai quốc gia kí kết chỉ thực hiện dẫn độ trên cơ sở quy định của Hiệp định. Nếu một quốc gia có yêu cầu dẫn độ phù hợp với các quy định của hiệp định thì các quốc gia kí kết kia phải có nghĩa vụ chuyển giao đối tượng đang bỏ trốn trên lãnh thổ của quốc gia mình cho quốc gia kí kết có yêu cầu. Ngược lại, hai quốc gia kí kết sẽ không có nghĩa vụ dẫn độ nếu yêu cầu dẫn độ trái với các quy định của hiệp định hoặc trái với pháp luật của quốc gia kí kết được yêu cầu.

Xuất phát từ sự phức tạp trong thủ tục dẫn độ tội phạm nên những tội phạm ít nghiêm trọng, gây hại không lớn cho xã hội thì không nhất thiết phải áp dụng thủ tục dẫn độ mà có thể sử dụng các biện pháp khác như trục xuất, đẩy trả… Vì vậy, trong các hiệp định đều quy định hình phạt tối thiểu có thể áp dụng hoặc đã áp dụng cho đối tượng phạm tội.

Thứ hai, từ chối dẫn độ người phạm tội

Từ chối dẫn độ người phạm tội là vấn đề được quy định ở tất cả các hiệp định TTTP mà Việt Nam kí kết với các quốc gia có quy định về dẫn độ. Tuy nhiên, các trường hợp từ chối dẫn độ được quy định trong từng hiệp định có sự khác nhau nhất định. Nói chung có thể khái quát các trường hợp từ chối dẫn độ tội phạm trong các hiệp định bao gồm:

Người bị dẫn độ là công dân của quốc gia kí kết được yêu cầu;

- Người bị dẫn độ là cá nhân đã có hành vi phạm pháp trong cùng một vụ án mà quốc gia kí kết yêu cầu đã kết án hoặc đã có bản án hình sự đã có hiệu lực pháp luật hoặc đã có lệnh đình chỉ xét xử vụ án;

- Tội phạm xảy ra trên lãnh thổ quốc gia kí kết được yêu cầu dẫn độ;

- Quốc gia kí kết được yêu cầu xét thấy trong pháp luật của quốc gia mình, hành vi phạm tội làm căn cứ dẫn độ đã hết thời hiệu tố tụng hình sự hoặc hết thời hạn thi hành bản án;

- Quốc gia kí kết được yêu cầu dẫn độ xét thấy pháp luật quốc gia mình không thể chấp nhận được việc dẫn độ vì lí do đặc biệt.

Một số hiệp định còn quy định những trường hợp dẫn độ tội phạm đặc thù, chỉ tồn tại trong hiệp định đó. Cụ thể, điểm a khoản 1 Điều 3 Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Hàn Quốc quy định:

“Việc dẫn độ sẽ không được thực hiện theo Hiệp định trong trường hợp khi bên được yêu cầu xác định rằng tội phạm bị yêu cầu dẫn độ là tội phạm mang tính chất chính trị”

hoặc tại khoản 2 Điều 55 Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Ba Lan quy định:

“Các nước kí kết không được dẫn độ trong trường hợp tội phạm đã thực hiện trên lãnh thổ của nước thứ ba và pháp luật của nước kí kết được yêu cầu không cho truy cứu trách nhiệm hình sự loại tội phạm đó thực hiện ngoài lãnh thổ nước mình”.

Thứ ba, hoãn dẫn độ tội phạm

Hiệp định TTTP giữa Việt Nam với các quốc gia đều quy định về vấn đề này, khát quát như sau:

Nếu người bị yêu cầu dẫn độ đang bị truy cứu TNHS hoặc đang phải chấp hành hình phạt trên lãnh thổ của bên kí kết được yêu cầu do thực hiện tội phạm khác thì có thể hoãn dẫn độ người đó cho đến khi kết thúc việc xét xử hình sự hoặc chấp hành xong hình phạt hoặc được tha trước thời hạn.

Ngoài ra, trong Hiệp định về dẫn độ tội phạm giữa Việt Nam và Hàn Quốc hay trong Hiệp định TTTP giữa Việt Nam và Ba Lan, việc hoãn dẫn độ tội phạm được quy định khá cụ thể.

Thứ tư, giới hạn của việc truy cứu TNHS đối với người bị dẫn độ

Các hiệp định TTTP mà Việt Nam kí kết với các quốc gia đều quy định:

Nếu không được sự đồng ý của quốc gia kí kết được yêu cầu thì không truy cứu TNHS người bị dẫn độ, không được buộc người đó phải chấp hành hình phạt về một tội phạm đã thực hiện trước ngày dẫn độ và cũng không dẫn độ người đó cho quốc gia thứ ba.

Bên cạnh đó, phần lớn hiệp định còn quy định các trường hợp không đòi hỏi phải có sự đồng ý nói trên, có nghĩa là không đòi hỏi phải có sự đồng ý của quốc gia kí kết được yêu cầu thì quốc gia kí kết yêu cầu có thể truy cứu hoặc không truy cứu TNHS người bị dẫn độ, hoặc có thể thi hành án hay không thi hành án trong các trường hợp cụ thể và thường được quy định tại khoản 2 của điều luật quy định về vấn đề này.

Thứ năm, một số quy định khác liên quan đến dẫn độ

- Dẫn độ tạm thời cũng được ghi nhận ở hầu hết các hiệp định TTTP mà Việt Nam kí kết với các quốc gia, trong đó đều thể hiện nội dung:

Nếu việc hoãn dẫn độ tội phạm dẫn đến hết thời hiệu tố tụng (chính là thời hiệu truy cứu TNHS) hoặc có thể cản trở việc tiến hành xét xử vụ án hình sự thì người bị yêu cầu dẫn độ có thể bị dẫn độ tạm thời theo yêu cầu hợp lí của các quốc gia kí kết.

- Bắt giữ để dẫn độ, văn bản dẫn độ, vấn đề bổ sung tài liệu văn bản dẫn độ, dẫn độ tạm thời, dẫn độ lại, chuyển giao người dẫn độ, thông báo kết quả dẫn độ, quá cảnh...

Nhìn chung, các quy định trên có sự khác nhau nhất định về cách thức quy định còn về nội dung đều có những điểm chung nhất, tạo ra sự thống nhất trong việc thực hiện dẫn độ tội phạm mà Việt Nam tham gia với tư cách là một trong hai bên kí kết.

*******

Sưu tầm