Bình luận khoa học Bộ luật Hình sự Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản được quy định tại Điều 175 Bộ luật Hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017.
Trong Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản, quyền sở hữu tài sản của nhà nước, cơ quan, tổ chức, cá nhân bị xâm phạm.
Tài sản bao gồm: vật, tiền, giấy tờ có giá.
Tài sản có giá trị từ 4 triệu đồng trở lên; hoặc
Tài sản có giá trị dưới 4 triệu đồng thuộc một trong các trường hợp dưới đây, tội phạm được coi là hoàn thành từ thời điểm thực hiện hành vi lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản có giá trị dưới 4 triệu đồng:
- Đã bị xử phạt vi phạm hành chính về hành vi chiếm đoạt hoặc đã bị kết án về một trong các tội sau mà chưa được xóa án tích:
+ Điều 168. Tội cướp tài sản.
+ Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản.
+ Điều 170. Tội cưỡng đoạt tài sản.
+ Điều 171. Tội cướp giật tài sản.
+ Điều 172. Tội công nhiên chiếm đoạt tài sản.
+ Điều 173. Tội trộm cắp tài sản.
+ Điều 174. Tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
+ Điều 175. Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
+ Điều 290. Tội sử dụng mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản.
- Tài sản là phương tiện kiếm sống chính của người bị hại và gia đình họ.
Quyền sở hữu tài sản bị xâm phạm bởi hai nhóm hành vi:
(1) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức Hợp đồng rồi dùng thủ đoạn gian dối hoặc bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản đó hoặc đã đến thời hạn trả lại tài sản và mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả.
Nhận được tài sản thông qua các Hợp đồng đúng đắn, ngay thẳng (Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức Hợp đồng) sau đó khi đến thời hạn trả lại tài sản mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả. Hành vi “cố tình không trả” là hành vi vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, làm cho chủ tài sản mất hẳn khả năng thực tế thực hiện quyền sử dụng, quyền định đoạt, quyền chiếm hữu đối với tài sản và tạo ra cho người phạm tội khả năng thực hiện việc chiếm hữu, sử dụng, định đoạt trái pháp luật tài sản đó như tài sản của người phạm tội. Người phạm tội nhận thức rõ hành vi của họ là vi phạm pháp luật và nguy hiểm cho xã hội. Đồng thời thấy trước hậu quả của hành vi đó là tài sản của người khác bị chiếm đoạt trái phép và mong muốn hậu quả xẩy ra. Mục đích của tội phạm là chiếm đoạt tài sản của người khác.
Hành vi “bỏ trốn để chiếm đoạt tài sản” không phải là hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản bởi lẽ: Thực tế, người nhận được tài sản thông qua các Hợp đồng đúng đắn, ngay thẳng (Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức Hợp đồng) sau đó “bỏ trốn” tức là: trốn khỏi nơi cư trú, nơi làm việc …
“Bỏ trốn” vì lý do khách quan và hợp lý như: Kinh doanh thua lỗ…, hành vi “không trả lại tài sản” của người đó không có lỗi cố ý trực tiếp nên không phải là hành vi chiếm đoạt, việc người đó bỏ trốn chỉ là “bất đắc dĩ” do “vỡ nợ” chứ không phải là một thủ đoạn để chiếm đoạt tài sản.
Nhưng có khả năng trả lại tài sản nhưng bỏ trốn cùng với số tài sản nhận được thì hành vi bỏ trốn cùng số tài sản nhận được đã thể hiện thái độ “cố tình không trả” của chủ thể.
(2) Vay, mượn, thuê tài sản của người khác hoặc nhận được tài sản của người khác bằng các hình thức Hợp đồng và đã sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.
Lý do dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản là do lỗi chủ quan: Người đó đã sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp như: Đánh bạc, buôn lậu…, thì hành vi này là hành vi chiếm đoạt, vì hành vi sử dụng tài sản vào mục đích bất hợp pháp là sự định đoạt trái pháp luật của chủ thể đối với tài sản không phải của mình, người đó đương nhiên nhận thức rõ được tính trái pháp luật này và do đó, hành vi này được thực hiện với lỗi cố ý trực tiếp, và làm cho chủ tài sản mất hẳn tài sản; nhưng trường hợp này đã được quy định là một hành vi khách quan của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản.
Hợp đồng ở đây là Hợp đồng đúng đắn, ngay thẳng. Ở thời điểm ký kết Hợp đồng, người phạm tội chưa có ý định chiếm đoạt tài sản. Khác với trường hợp ngay từ đầu đã có mục đích gian dối, ký kết Hợp đồng chỉ để được giao tài sản rồi sau đó thực hiện mục đích chiếm đoạt, đó là hành vi cấu thành tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản.
Hành vi của tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản là hành vi chiếm đoạt và phải là chiếm đoạt được, tức là sự vi phạm nghĩa vụ trả lại tài sản, khác với hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác.
Tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản tạo cơ sở pháp lý để đấu tranh với các thực trạng đang rất “nóng bỏng” hiện nay: “quỵt nợ”, “vỡ tín dụng”, “đòi nợ thuê”… nhưng phải xem xét cẩn trọng đặc tính của hành vi:
- Nhận được tài sản bằng Hợp đồng ngay thẳng, sau đó
- Sử dụng tài sản đúng mục đích của Hợp đồng hay dùng thủ đoạn gian dối, bỏ trốn.
- Không thực hiện nghĩa vụ trả nợ, trả lại tài sản là do:
+ không có khả năng trả do lỗi khách quan không nhằm mục đích chiếm đoạt hay
+ cố tình không trả do lỗi chủ quan: đến thời hạn trả lại tài sản và mặc dù có điều kiện, khả năng nhưng cố tình không trả; hay đã
+ sử dụng tài sản đó vào mục đích bất hợp pháp dẫn đến không có khả năng trả lại tài sản.